CHƯƠNG 1. MÁY TÍNH CĂN BẢN
1.1. Khái
quát về máy tính điện tử
Máy vi tính là thiết bị không thể thiếu trong cuộc
sống hiện nay, có mặt tại mọi nơi với người sử dụng rộng lớn. Máy tính hay là
máy vi tính, máy điện toán, là những thiết bị hay hệ thống dùng để tính toán
hay kiểm soát các hoạt động mà có thể biểu diễn dưới dạng số hay quy luật lôgic.
Máy tính được lắp ghép bởi các thành phần có thể thực
hiện các chức năng đơn giản đã định nghĩa trước. Quá trình tác động tương hỗ
phức tạp của các thành phần này tạo cho
máy tính một khả năng xử lý thông tin. Nếu được thiết lập chính xác (thông
thường bởi các chương trình máy tính) máy tính có thể mô phỏng lại một số khía cạnh của một vấn đề hay của
một hệ thống. Trong trường hợp này, khi được cung cấp một bộ dữ liệu thích hợp
nó có thể tự động giải quyết vấn đề hay dự đoán trước sự thay đổi của hệ thống.
Từ "máy tính" (computers), đầu tiên, được
dùng cho những người tính toán số học, có hoặc không có sự trợ giúp của máy
móc, nhưng hiện nay nó hoàn toàn có
nghĩa là một loại máy móc. Đầu tiên máy tính chỉ giải các bài toán số
học, nhưng máy tính hiện đại làm được nhiều hơn thế.
Máy tính có thể trực tiếp mô hình hóa các vấn đề cần
được giải quyết, trong khả năng của nó các vấn đề cần được giải quyết sẽ được
mô phỏng gần giống nhất với những hiện tượng vật lý đang khai thác. Ví dụ, dòng
chuyển động của các điện tử có thể được sử dụng để mô hình hóa sự chuyển động
của nước trong đập. Những chiếc máy tính tương tự (analog computer) giống như
thế đã rất phổ biến trong thập niên 1960 nhưng hiện nay còn rất ít.
Trong phần lớn các máy tính ngày nay, trước hết, mọi
vấn đề sẽ được chuyển thành các yếu tố toán học bằng cách diễn tả mọi thông tin
liên quan thành các số theo hệ nhị phân (hệ thống đếm dựa trên các số 0 và 1
hay còn gọi là hệ đếm cơ số 2). Sau đó, mọi tính toán trên các thông tin này
được tính toán bằng đại số Bool (Boolean algebra).
Các mạch điện tử được sử dụng để miêu tả các phép tính
Bool. Vì phần lớn các phép tính toán học có thể chuyển thành các phép tính Bool
nên máy tính điện tử đủ
nhanh để xử lý phần lớn các vấn đề toán học (và phần lớn thông tin của
vấn đề cần giải quyết đã được chuyển thành các vấn đề toán học). Ý tưởng cơ bản
này, được nhận biết và nghiên cứu bởi Claude E. Shannon - người đã làm cho máy
tính kỹ thuật số (digital computer) hiện đại trở thành hiện thực.
Máy tính không thể giải quyết tất cả mọi vấn đề của
toán học. Alan Turing đã sáng tạo ra khoa học lý thuyết máy tính trong đó đề
cập tới những vấn đề mà máy tính có thể hay không thể giải quyết.
Khi máy tính kết thúc tính toán một vấn đề, kết quả của nó được hiển thị
cho người sử dụng thấy thông qua thiết bị xuất như: bóng đèn, màn hình, máy
in,...
1.2. Phân
loại máy tính
1.2.1. Theo
mục đích sử dụng
- Siêu máy tính
- Siêu máy tính cỡ nhỏ
- Mainframe
- Máy chủ doanh nghiệp
- Máy tính mini
- Máy trạm (workstation)
- Máy tính cá nhân (PC)
- Máy tính để bàn (Desktop)
- Máy tính xách tay (Laptop)
- Máy tính bảng con
- Thiết bị hỗ trợ kỹ thuật số
cá nhân (PDA)
- Máy tính tháo lắp
1.2.2. Theo
mức cải tiến công nghệ
Một cách phân loại máy tính ít mơ hồ hơn là theo mức
độ hoàn thiện của công nghệ. Những chiếc máy tính có mặt sớm nhất thuần túy là
máy cơ khí. Trong thập niên 1930, các thành phần relay cơ-điện đã được giới
thiệu vào máy tính từ ngành công nghiệp liên lạc viễn thông. Trong thập niên
1940, những chiếc máy tính thuần túy điện
tử đã được chế tạo từ những bóng điện tử. Trong hai thập niên 1950 và
thập niên 1960, bóng điện tử dần dà được thay thế bởi bóng bán dẫn, và từ cuối
thập niên 1960 đầu thập niên 1970 là bởi mạch tích hợp bán dẫn (chíp bán dẫn,
hay IC) cho đến hiện nay.
Một hướng nghiên cứu phát triển gần đây là máy tính
quang (optical computer) trong đó máy tính hoạt động theo nguyên lý của ánh
sáng hơn là theo nguyên lý của các dòng điện; đồng thời, khả năng sử dụng DNA
trong công nghệ máy tính cũng đang được thử nghiệm. Một nhánh khác của việc
nghiên cứu có thể dẫn công nghiệp máy tính tới những khả năng mới như tính toán
lượng tử, tuy rằng nó vẫn còn ở giai đoạn đầu của việc nghiên cứu.
1.2.3.
Theo đặc trưng thiết kế
Các máy tính hiện đại đã liên kết các đặc trưng thiết
kế chính được phát triển bởi nhiều người đóng góp trong nhiều năm. Các đặc
trưng này phần lớn không phụ thuộc vào mức độ hoàn thiện của công nghệ. Các máy
tính hiện đại nhận được khả năng tổng thể của chúng theo cách mà các đặc trưng
này tác động qua lại với nhau. Một số đặc trưng quan trọng được liệt kê dưới
đây:
a)
Kỹ thuật số và kỹ thuật
tương tự
Một quyết định nền tảng trong việc thiết kế máy tính
là sử dụng kỹ thuật số (digital) hoặc sử dụng kỹ thuật tương tự (analog). Các
máy tính kỹ thuật số (digital computer) tính toán trên các giá trị số rời rạc
(discreet value) hoặc giá trị tượng trưng (symbolic value), trong khi đó máy
tính tương tự (analog computer) tính toán trên các tín hiệu dữ liệu liên tục
(continuous data signal). Bắt đầu từ thập niên 1940, máy tính kỹ thuật số đã
trở nên phổ biến hơn mặc dù máy tính tương tự vẫn được sử dụng cho một số mục
đích đặc biệt như trong kỹ thuật robot và việc kiểm soát các lò xyclôtrôn. Các
thiết kế khác dùng tính toán xung lượng và tính toán lượng tử cũng hiện hữu
nhưng chúng được sử dụng cho các mục đích đặc biệt hoặc vẫn đang trong vòng thử
nghiệm.
b)
Nhị phân và Thập phân
Một phát triển quan trọng trong thiết kế tính toán kỹ
thuật số là việc sử dụng hệ nhị phân như là hệ thống số đếm nội tại. Điều này
đã bãi bỏ những yêu cầu cần thiết trong các cơ cấu kỹ thuật phức tạp của các
máy tính sử dụng hệ số đếm khác, chẳng
hạn như hệ thập
phân. Việc áp dụng hệ nhị phân đã làm cho việc thiết kế trở lên đơn giản hơn để
thực hiện các phép tính số học và các phép tính logic.
c)
Khả năng lập trình
Khả năng lập trình của máy tính, nghĩa là cung cấp cho
nó một tập hợp các chỉ thị để thực hiện
mà không có sự điều khiển vật lý đối với nó, là một đặc trưng thiết kế nền tảng
của phần lớn các máy tính. Đặc trưng này là một sự mở rộng đáng kể khi các máy
tính đã được phát triển đến mức nó có thể kiểm soát động luồng thực hiện của
chương trình. Điều này cho phép máy tính kiểm soát được thứ tự trong sự thực
thi các chỉ lệnh trong chương trình dựa trên các dữ liệu đã được tính ra.
Điểm nổi bật chính trong thiết kế này đó là nó đã được
đơn giản hóa một cách đáng kể với việc áp dụng các phép tính số học theo hệ đếm
nhị phân để có thể mô tả hàng loạt các phép tính logic.
d) Lưu trữ
Trong quá trình tính toán, máy tính thông thường cần
phải lưu trữ các giá trị trung gian để có thể sử dụng trong các tính toán sau
đó. Khả năng thực hiện của máy tính phần lớn phụ thuộc vào tốc độ đọc các giá
trị từ bộ nhớ và tốc độ ghi vào bộ nhớ, cũng như dung lượng bộ nhớ. Ban đầu bộ
nhớ chỉ được sử dụng cho các giá trị trung gian, nhưng từ thập niên 1940 thì
chính bản thân chương trình cũng có thể được lưu trữ theo cách này. Điểm nổi trội này đã dẫn
đến việc ra đời của những chiếc máy tính có sẵn chương trình đầu tiên của thế
hệ máy tính ngày nay.
1.2.4. Theo
năng lực sử dụng
Có lẽ cách tốt nhất để phân loại các thiết bị máy tính
là theo năng lực nội tại của nó, hơn là theo việc sử dụng, sự hoàn thiện công
nghệ hay các đặc trưng thiết kế. Máy tính có thể chia làm ba dạng chính dựa
theo năng lực sử dụng:
a)
Các thiết bị có một mục đích chỉ có thể thực hiện duy
nhất một chức năng (ví dụ cỗ máy
Antikythera năm 87 trước công lịch, và máy dự báo thủy triều của Lord Kelvin
năm 1876).
b)
Các thiết bị có mục đích đặc biệt có thể thực hiện một
số chức năng hữu hạn (ví dụ động cơ vi phân số 1. - Difference Engine No 1 -
của Charles Babbage năm 1832 và máy phân
tích vi phân của Vannevar Bush năm 1932).
c)
Các thiết bị có mục đích không nhất định là các dạng
máy tính sử dụng ngày nay.
d)
Các máy tính có mục đích không nhất định còn được gọi
là các máy loại Turing hoàn tất và điều này được sử dụng như khả năng ngưỡng để
định nghĩa các máy tính hiện nay.
e)
Các máy tính có sẵn chương trình: Thiết kế
"chương trình có sẵn", được định nghĩa bởi kiến trúc Von Neumann, cuối
cùng đã cho phép máy tính khai thác tiềm năng "mục đích không nhất
định" của chúng. Bằng cách lưu trữ chương trình trong bộ nhớ, chúng có thể
nhanh chóng "nhảy" từ chỉ thị này tới chỉ thị khác dựa trên kết quả
của một điều kiện như đã được định nghĩa sẵn trong chương trình. Các điều kiện
này thông thường lượng giá các dữ liệu đã được tính toán bởi chương trình và
cho phép chương trình trở thành động hơn. Thiết kế này cũng hỗ trợ vào khả năng
tự động viết lại chương trình ngay trong khi nó đang thực thi - một đặc trưng
rất mạnh nhưng cần sử dụng một cách cẩn thận. Các đặc trưng này là nền tảng cho
các máy tính hiện đại.
f)
Các máy tính có mục đích đặc biệt: Các máy tính có mục
đích đặc biệt (special- purpose computer) đã được phổ biến trong thập niên 1930
và đầu thập niên 1940 nhưng vẫn chưa bị thay thế hoàn toàn bởi các máy tính có
mục đích không nhất định.
g)
Các máy tính có một mục đích: Các máy tính có một mục
đích (single-purpose computer) là loại xuất hiện sớm nhất của thiết bị máy
tính. Khi được cung cấp dữ liệu, nó có thể tính kết quả của một hàm đơn giản đã
được thiết lập trong cơ chế của nó. Các
máy tính có mục đích không nhất định gần như đã thay thế hoàn toàn các máy tính
có một mục đích và, do đó, đã phát sinh một lĩnh vực hoạt động mới của loài
người: phát triển phần mềm. Các máy tính có mục đích không nhất định cần phải
được lập trình với một bộ chỉ thị liên quan đến phần mềm máy tính. Việc thiết
kế các thiết bị tính toán có một mục đích hay có mục đích đặc biệt hiện nay là
những bài tập khái niệm thuần túy bao gồm các phần mềm thiết kế.
1.2.5. Theo
hình thức hoạt động
Máy tính có thể được phân loại tùy theo cách thức
người dùng vận hành. Có hai loại chính: kiểu xử lý tuần tự (batch processing)
và kiểu xử lý tương tác (interactive = rocessing).
1.3. Phần
cứng máy tính
Là các thiết bị điện tử có thể nhìn thấy, cảm nhận
được bằng các giác quan như: các thiết bị nhập xuất, RAM, CPU,…
Căn cứ vào chức năng lưu trữ và xử lý thông tin, máy
tính được tổ chức từ 3 khối chính như sau:
- Khối nhập, xuất
- Khối xử lý
- Khối lưu trữ
![]() |
1.3.1.
Đơn vị xử lý trung tâm (CPU)
Là bộ phận đầu não của máy tính, đóng vai trò xử lý dữ
liệu thông qua việc thực hiện các lệnh của các chương trình nằm trong bộ nhớ
chính.
1.3.2.
Thiết bị nhập (Input Devices)
Là thiết bị cho phép nhập thông tin từ bên ngoài vào
máy tính. Thiết bị nhập chuẩn (là bàn phím (Keyboard). Ngoài ra còn có thiết bị
nhập phụ khác như: máy quét (scanner), mouse, camera,...
1.3.3. Thiết
bị xuất (Output Device)
Là thiết bị cho xuất thông tin sau khi được máy tính
xử lý. Thiết bị chuẩn là màn hình (monitor). Ngoài ra còn có các thiết bị phụ
như: máy in (printer), máy vẽ (plotter),…
1.3.4.
Bộ nhớ và thiết bị lưu trữ:
a) Bộ nhớ chính (gồm bộ nhớ trong và bộ nhớ ngoài)
Là nơi lưu trữ thông tin để máy tính sử dụng trong quá
trình xử lý thông tin. Bộ nhớ chính được chia làm hai loại:
ROM: Có thể
đọc mà không ghi thông tin lên đĩa. Là bộ nhớ dành riêng để chứa các phần mềm
và thông tin do nhà sản xuất định sẵn
RAM: Có thể
đọc, ghi thông tin. Dùng để lưu trữ thông tin tạm thời. Khi tắt máy, mất điện
nội dung thông tin trong bộ nhớ này sẽ bị mất
b) Thiết bị lưu trữ
Có sức chứa vô hạn và thông tin không bị mất khi không
cung cấp điện. Khi cần xử lý thông tin trong bộ nhớ ngoài thì các thông tin này
sẽ được nạp vào bộ nhớ chính (main memory) là Ram sau đó chuyển đến CPU. Do
truy cập tuần tự và phải qua trung gian nên tốc độ truy xuất thông tin trên bộ
nhớ ngoài chậm hơn so với bộ nhớ trong. Tốc độ truy xuất còn tùy thuộc vào từng
loại thiết bị, chậm nhất là băng từ ->đĩa mềm>...
1.4. Phần
mềm máy tính
Là các chương trình để máy tính hoạt động. Có thể ví
phần cứng như là phần xác còn phần mềm là phần hồn của máy tính. Phần mềm có
hai loại phần mềm cơ bản và phầm mềm ứng dụng.
1.4.1. Phần
mềm hệ thống
Là hệ thống chương trình giúp người sử dụng làm việc
với các ứng dụng cũng như sử dụng phần cứng của máy một cách thuận tiện và hiệu
quả. Các hệ điều hành hiện đang được sử dụng hiện nay trên thế giới là: MS
Windows, UNIX, Linux…
1.4.2.
Phần mềm ứng dụng
Là các chương trình hỗ trợ của hệ điều hành, thực hiện
các công việc theo yêu cầu người sử dụng. Bao gồm các chương trình dịch, các hệ
cơ sở dữ liệu, phần mềm mạng, phần mềm đồ họa phần mềm quản lý và các phần mềm
chuyên dụng khác.
1.4.3.
Các giao diện với người sử dụng
Hệ điều hành DOS có giao diện với người sử dụng là hệ
thống lệnh. Còn hệ điều hành Windows nói chung và các hệ điều hành khác sử dụng
giao diện là cửa sổ, thân thiện với
người sử dụng hơn.
1.5. Đơn
vị lưu trữ thông tin
Đơn vị để đo thông tin gọi là Bit. Một bit tương ứng
với một chỉ thị hoặc một thông báo nào đó về một sự kiện có trong hai trạng
thái có số đo khả năng xuất hiện đồng thời là Tắt(Off) / Mở (On) hay Đúng
(True) / Sai (False).
Ví dụ: Một mạch đèn có hai trạng thái là:
- Tắt (Off) khi mạch điện qua
công tắt là hở
- Mở (On) khi mạch điện qua
công tắt là đóng
Số nhị phân sử dụng sai số hạng 0 và 1. Vì khả năng sử
dụng hai số 0 và 1 là như nhau nên một chỉ thị gồm một chữ số nhị phân có thể
xem như là chứa đơn vị thông tin nhỏ nhất.
Bit là viết tắt của Binary digit. Trong tin học, người ta sử dụng các đơn
vị đo thông tin lớn như sau:
Bảng đơn vị đo thông tin
Một nhóm 8 bit được gọi là một Byte (B)
|
1 Kilobyte(KB) = 210 B = 1.024 Bytes
1 Megabyte (MB) = 220 B = 1.048.576 Bytes =
1.024KB
1 Gigabyte (GB) = 230 B = 1.073.741.824 Bytes =
1.024MB
1 Terabyte (TB) = 240 B = 1.099.511.627.776
Bytes = 1.024GB
1 Petabyet (PB) = 250 B = 1.125.899.906.842.620 Bytes = 1.024TB
1 Exabyte (EB) = 260 B =
1.152.921.504.606.850.000 Bytes = 1.024PB
|
1.6. Các
hệ thống đếm trong tin học
1.6.1.
Hệ thập phân
Hệ thập phân (hay hệ
đếm cơ số 10) là một hệ đếm có 10 ký tự (0, 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9) dùng chỉ
số lượng. Những con số này còn được dùng cùng với dấu phân cách thập phân – để
định vị phần thập phân sau hàng đơn vị. Con số còn có thể được dẫn đầu bằng các
ký hiệu "+" hay "-" để biểu đạt số dương và số âm.
1.6.2.
Hệ nhị phân
Hệ nhị phân (hay hệ
đếm cơ số 2) là một hệ đếm dùng hai ký tự để biểu đạt một giá trị số, hai ký tự
đó là 0 và 1; chúng thường được dùng để biểu đạt hai giá trị hiệu điện thế
tương ứng (có hiệu điện thế, hoặc hiệu điện thế cao là 1 và không có, hoặc thấp
là 0). Do có ưu điểm tính toán đơn giản, dễ dàng thực hiện về mặt vật lý, chẳng
hạn như trên các mạch điện tử, hệ nhị phân trở thành một phần kiến tạo căn bản
trong các máy tính đương thời.
Số nhị
phân và bảng chữ cái: Các chữ cái
đều có một mã số gọi là mã ASCII. Khi lưu trữ, máy tính sẽ chuyển mã ASCII của
chữ cái này sang hệ nhị phân sau
đó lưu trữ dãy nhị phân này.
1.6.3.
Hệ thập lục phân
Trong toán học và
trong khoa học điện toán, hệ thập lục phân (hay hệ đếm cơ số 16, tiếng Anh:
hexadecimal) là một hệ đếm có 16 ký tự, từ 0 đến 9 và A đến F (chữ hoa và chữ thường như nhau).
Ví dụ, số thập phân 79, với biểu thị nhị
phân là 01001111, có thể được viết thành 4F trong hệ thập lục phân (4 = 0100, F
= 1111).
Bảng liệt kê sau đây
chỉ ra cho chúng ta từng ký tự số của hệ thập lục phân, cùng với giá trị tương
ứng của nó trong hệ thập phân, và một dãy bốn ký tự số tương đương trong hệ nhị
phân.
1.7. Một
số kỹ thuật xử lý sự cố máy tính căn bản
Trong quá trình xử lý sự cố máy tính, mỗi người có sự
xử lý chuẩn đoán sự cố khác nhau trong thực hiện kiểm tra khác nhau. Một số dựa
vào khả năng phán đoán, suy đoán một số người làm theo hướng dẫn của người đi
trước, bạn bè đồng nghiệp để chuẩn đoán sự cố.
Bước 1: Nhận diện vào sự cố: Thông
thường bạn không nhận diện được ra vấn đề, không thể tìm hướng giải quyết sự cố
để nhận biết được tình trạng máy tính xảy ra sự cố. Bạn hỏi ngay người dùng máy
tính trước lúc xảy ra sự cố có làm các bước sau không:
-
Máy tính xảy ra hiện tượng gì,
như thế nào
- Máy có thường xuyên xảy ra
tình trạng thế không
- Máy có cài đặt phần mềm nào
mới không
Bước 2: Kiểm tra hệ thống: Trước khi
tiến hành cần kiểm tra hệ thống máy, các phụ kiện lắp đặt trong Case, các kết
nối như Card màn hình, bàn phím, chuột (Keyboard) vv… màn hình các phụ kiện
khác. Các vấn đề về sự cố có khả năng xảy ra sự cố từ các thiết bị. Sau khi
kiểm tra các thiết bị hệ thống vẫn hoạt động bình thường mà vẫn chưa xử lý được
chuyển sang bước tiếp theo.
Bước 3: Tìm các tác nhân gây lên sự cố: Các
nguyên nhân sự cố máy tính, hỏi chính những người sử dụng máy tính đó cung cấp
thông tin về sự chính xác làm những gì trước khi sự cố xảy ra để từ đó suy đoán
được lại những sự việc trước đó để tìm nguyên nhân.
-
Khởi động lại máy tính bước này là quan trọng để xác
định được phần nào máy tính của bạn để tập trung vào tìm kiếm và giải quyết các
phần cần có những kỹ năng, kỹ thuật và những công cụ giải quyết khác nhau.
-
Bước tiếp theo này chủ yếu tìm hiểu nguyên nhân dựa
vào kinh nghiệm của từng cá nhân kỹ thuật viên.
Bước 4: Thiết lập: Kiểm tra các
thiết lập về phần cứng trong CMOS và trong bộ quản lý thiết lập hệ thống, tạo
các trình điều khiển thiết bị và cập nhật tất cả card cắm trên máy tính.
Bước 5: Các thay đổi: Khi thấy lỗi
một phần cứng hay phần mềm trên máy tính, hãy xác định điều gì đã thay đổi
trước khi vấn đề xảy ra.
Bước 6: Ghi lại thông tin về sự cố: Sự cố là
môi trường học tập hữu ích, có thể học được rất nhiều khi đối phó với đủ loại
lỗi. Hãy ghi lại tất cả các cảnh báo lỗi và
phương pháp khắc
phục, qua đó bạn sẽ có một cuốn sổ chỉ dẫn các phát hiện và xử lý lỗi máy tính.
Bước 7: Nếu không giải quyết được vấn đề: Sau khi xác
định nguyên nhân mà bạn không giải quyết được vấn đề, đặt máy tính về tình
trạng ban đầu rồi mới tiếp tục giải quyết theo những hướng khác.
Bước 8: Yêu cầu trợ giúp: Mọi điều hiển nhiên trong chúng ta không ai có thể
giải quyết được mọi sự cố, những sự cố phát sinh mới chưa từng gặp và không thể
tìm ra nguyên nhân. Khi đó cần tìm đến sự giúp
Rated 4.6/5 based on 28 votes
0 Response to "Tin học - Chương 1: Máy tính căn bản"
Post a Comment